Tiến sĩ Peter McCullough: Thúc ép tiêm chủng là sự vi phạm đạo đức trắng trợn
Protein gai trong vaccine sẽ làm hỏng các mạch máu và có thể dẫn đến sự phát triển của các cục máu đông. Nó có thể đi vào não, tuyến thượng thận, buồng trứng, tim, cơ xương và dây thần kinh, gây viêm, sẹo và làm tổn thương các cơ quan theo thời gian.
Tiến sĩ Peter McCullough có một danh sách chứng chỉ ấn tượng – ông là bác sĩ nội khoa, bác sĩ tim mạch, nhà dịch tễ học và là giáo sư y khoa tại Đại học Y Texas A&M ở Dallas. Ông cũng đồng thời là biên tập viên của hai tạp chí y khoa và xuất bản hàng trăm nghiên cứu.
Peter McCullough nằm trong số những người đầu tiên dũng cảm lên tiếng về sự nguy hiểm của vaccine COVID-19, đồng thời khiến giấy phép y tế và sinh kế tương lai của mình gặp rủi ro khi làm như vậy.
Trong một tập phim Perspectives on the Pandemic, khi đề cập đến tình trạng hội đồng y tế của tiểu bang đang săn lùng các bác sĩ và đe dọa thu hồi giấy phép của họ dựa trên việc lan truyền “thông tin sai lệch”, tiến sĩ McCullough nói: “Có một cuộc săn lùng rất đáng lo ngại đang diễn ra ở đây”.
Ông nói thêm: “Điều này thật kinh ngạc khi nó diễn ra trong quá trình trao đổi ý kiến một cách công bằng”.
Vậy tiến sĩ McCullough đã chia sẻ điều gì mà những người có quyền lực không muốn bạn nghe thấy?
Đó là về việc tiêm vaccine COVID-19, và tất cả chỉ tóm lại trong một câu: “Nó không hiệu quả và nó gây ra thiệt hại to lớn”.
Tính hiệu quả và an toàn của vaccine COVID đã bị phóng đại ngay từ đầu
Ở Mỹ, Chiến dịch Warp Speed là nỗ lực của liên bang nhằm nhanh chóng đưa vaccine COVID-19 ra thị trường.
Nền tảng công nghệ biến đổi gen nổi lên như một lĩnh vực tiên phong, bao gồm nền tảng DNA adenoviral hoặc nền tảng RNA thông tin (mRNA) được thiết kế để cung cấp vật liệu di truyền đến cơ thể con người.
Khi mRNA được tiêm vào, cơ thể sẽ tiếp nhận vật liệu di truyền và thay đổi theo một cách nào đó.
Những công nghệ này đã được nghiên cứu trong nhiều năm, trong hầu hết các trường hợp, được thiết kế để thay thế một gen bị lỗi, ví dụ có thể được sử dụng để điều trị ung thư. Tuy nhiên, tiến sĩ McCullough cho biết: “Tất cả chúng đều thất bại”.
Vào tháng 11 năm 2020, hãng Pfizer, liên doanh với BioNTech có trụ sở tại Đức, đã thông báo rằng phương pháp tiêm dựa trên mRNA của họ đạt “hiệu quả hơn 90%” trong một thử nghiệm Giai đoạn 3.
Nhưng điều này không có nghĩa là 90% những người được tiêm sẽ được bảo vệ khỏi COVID-19, vì nó dựa trên việc giảm nguy cơ tương đối (RRR). Trong khi đó, mức giảm rủi ro tuyệt đối (ARR) đối với vaccine thấp hơn 1%.
Các nhà nghiên cứu đã viết trên The Lancet Microbe vào tháng 4 năm 2021:
“Mặc dù RRR chỉ xem xét những người tham gia thử nghiệm có thể được hưởng lợi từ việc tiêm chủng, nhưng mức giảm rủi ro tuyệt đối (ARR), là sự khác biệt giữa tỷ lệ bị nhiễm bệnh đối với người đã và chưa tiêm vaccine, lại xem xét trên toàn bộ dân số.
Mức ARR có xu hướng bị bỏ qua vì chúng đem lại hiệu ứng kém ấn tượng hơn nhiều so với RRR”.
Mặc dù vậy, các loại vaccine này vẫn được sự cho phép sử dụng khẩn cấp. Bằng cách cấp phép khẩn cấp chứ không phải phê duyệt, việc triển khai tiêm chủng đã tạo thành một thử nghiệm nghiên cứu trên diện rộng (mang tính toàn thế giới), với các nhà tài trợ là Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh CDC Hoa Kỳ và Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm FDA, theo tiến sĩ McCullough:
“Chúng tôi chưa bao giờ có hai cơ quan chính phủ cùng nhau tài trợ cho một chương trình nghiên cứu lớn như thế.
Thật đáng kinh ngạc, họ không có và cho đến nay họ cũng chưa hề tập hợp lại một ủy ban sự kiện quan trọng bên ngoài, một ban giám sát an toàn dữ liệu bên ngoài hoặc một ủy ban đạo đức con người.
Họ đã có những ủy ban này trong các thử nghiệm đăng ký… và đây là những tiêu chuẩn cơ bản.
Mỗi cuộc điều tra lâm sàng lớn đều phải có ba ủy ban này… Tôi chủ trì nhiều ủy ban này cho các công ty dược phẩm và Viện Y tế Quốc gia.
Người Mỹ lẽ ra phải có ít nhất hàng tuần, nếu không phải là hàng tháng, các đánh giá về mức độ an toàn để đảm bảo rằng các mũi tiêm là an toàn”.
Đến tháng 3 năm 2021, ông McCullough đã lo lắng
Ban đầu, ông McCullough nghĩ rằng có vẻ như các mũi tiêm thử nghiệm có thể an toàn, và khoảng 70% bệnh nhân của ông đã được tiêm một mũi vào tháng 12 năm 2020.
Nhưng đến tháng 3 năm 2021, ông cảm thấy không thoải mái với những gì mình đang chứng kiến. Từ ngày 14 tháng 12 năm 2020 đến ngày 8 tháng 3 năm 2021, hơn 92 triệu liều thuốc tiêm COVID-19 đã được sử dụng ở Hoa Kỳ.
Ông trích dẫn dữ liệu từ cơ sở dữ liệu của Hệ thống Báo cáo Sự kiện Có hại của Vaccine (VAERS), cho thấy trong thời gian đó, đã có 1.637 báo cáo về trường hợp tử vong ở những người được tiêm COVID-19.
CDC và FDA cho biết không có trường hợp tử vong nào liên quan đến tiêm chủng; nhưng theo ông McCullough, vào ngày 22 tháng 1 năm 2021, đã có 186 ca tử vong được báo cáo – quá đủ để đạt được tín hiệu tử vong đáng lo ngại và chấm dứt hoàn toàn chương trình.
Ông nói: “Với một chương trình tiêm chủng có quy mô như vậy, bất kể chúng là gì, miễn có hơn 150 người chết thì sẽ là một tín hiệu báo động. Với chỉ 27 triệu người Mỹ tiêm chủng, Hoa Kỳ đã có 186 người chết”.
Tiến sĩ McCullough tin rằng nếu các ủy ban an toàn thích hợp được thiết lập, chương trình vaccine COVID-19 sẽ bị đóng cửa vào tháng Hai dựa trên mức độ an toàn và nguy cơ tử vong.
Quay về năm 1976, khi chương trình tiêm nhanh chống cúm lợn bị tạm dừng sau khi ước tính có khoảng 25 đến 32 trường hợp tử vong.
Trong khi đó, mặc dù số người chết lớn hơn nhiều, các đợt tiêm chủng COVID-19 vẫn duy trì tiếp tục.
Theo ông McCullough, tính đến ngày 6 tháng 8 năm 2021, dữ liệu VAERS COVID-19 cho thấy đã có 12.791 trường hợp tử vong liên quan đến vaccine, và hàng chục nghìn lượt đến bệnh viện và phòng khám.
Trong một phân tích về các báo cáo tử vong do vaccine COVID-19 của VAERS, các nhà nghiên cứu nhận thấy nguyên nhân gây ra cái chết 86% trường hợp không có gì khác ngoài vaccine.
Các nhà nghiên cứu lưu ý:
“Mẫu chỉ bao gồm những người được tiêm chủng sớm trong chương trình, do đó chủ yếu bao gồm những người cao tuổi hoặc có tình trạng sức khỏe nghiêm trọng.
Dù vậy, chỉ có 14% trường hợp trong số này mà phản ứng do tiêm vaccine COVID có thể được loại trừ như là một yếu tố góp phần dẫn đến tử vong của họ”.
Ông McCullough nói thêm:
“Nghiên cứu sâu hơn cho thấy, và đây là điểm rất quan trọng mà tôi muốn bạn hiểu và ghi nhớ: trong số các trường hợp tử vong này, 50% xảy ra trong vòng 48 giờ sau khi tiêm, và 80% xảy ra trong vòng một tuần”.
Một cuộc khảo sát không chính thức trên Twitter, với 10.000 người đã trả lời, cũng hỏi liệu họ biết ai đó đã chết sau khi tiêm vaccine COVID-19 hay không.
12% khẳng định họ biết. Ông McCullough nói: “Khi mọi người nhìn thấy những người khác trong vòng kết nối (bạn bè, đồng nghiệp, gia đình…) của họ chết dần, bạn không thể lưỡng lự đối với việc ngăn chặn chương trình tiêm chủng COVID có hệ thống đó”.
Các tác dụng phụ khác của vaccine đã được xác nhận bao gồm viêm cơ tim và cục máu đông.
Một sự vi phạm đáng kinh ngạc đối với đạo đức con người
Cơ thể của bạn nhận ra protein gai trong vaccine COVID-19 là ngoại lai, vì vậy nó bắt đầu sản xuất các kháng thể để bảo vệ bạn chống lại COVID-19, hoặc theo lý thuyết là như vậy.
Nhưng có một vấn đề. Bản thân protein gai là nguy hiểm và được biết là sẽ tồn tại trong cơ thể bạn ít nhất trong vài tuần và nhiều khả năng là vài tháng – có thể lâu hơn – sau khi tiêm vaccine.
Trong tế bào của bạn, protein gai làm hỏng các mạch máu và có thể dẫn đến sự phát triển của các cục máu đông. Nó có thể đi vào não, tuyến thượng thận, buồng trứng, tim, cơ xương và dây thần kinh, gây viêm, sẹo và tổn thương các cơ quan theo thời gian.
Trong quá trình thử nghiệm của mình, tiến sĩ McCullough đang chứng kiến một loạt các hội chứng thần kinh ở những người đã được tiêm thuốc, với các triệu chứng bao gồm mù, tê liệt, khó nuốt, đau đầu, ù tai, viêm cơ tim và hơn thế nữa.
Nghiên cứu khác cho thấy tim, não, hệ thống miễn dịch và hệ thống huyết học có thể có nguy cơ cao nhất từ các lần tiêm chủng.
Ông McCullough nói, trẻ em (bao gồm cả những trẻ đã mắc COVID và có khả năng miễn dịch), là những người có nguy cơ cực kỳ thấp do COVID-19, không nhận được lợi ích nào từ việc tiêm chủng.
Tiến sĩ gọi tình huống này là “một thảm họa trong thời gian thực” và là hành động vi phạm đạo đức con người:
“Chúng ta đã và đang chứng kiến một sự vi phạm trắng trợn đối với đạo đức con người. Đối với một sản phẩm đang thử nghiệm, dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, không ai có quyền gây áp lực, ép buộc hoặc đe dọa trả thù lên người khác chỉ vì họ không tham gia nghiên cứu”.
Vaccine Pfizer-BioNTech đã nhận được sự chấp thuận của FDA vào ngày 23 tháng 8 năm 2021; nhưng trước đó, xổ số hàng triệu đô la, miễn học phí, tiền thưởng và các khoản hối lộ khác như bia miễn phí và bánh rán đã được tung ra chỉ để lôi kéo mọi người đi tiêm.
Khi chúng không hiệu quả, sự ép buộc bắt đầu xuất hiện, bao gồm nhiều nhân viên chăm sóc sức khỏe, và hàng trăm trường cao đẳng ở Hoa Kỳ cũng đang yêu cầu sinh viên phải tiêm chủng để được đi học.
Những người được chủng ngừa vẫn mắc COVID
Các báo cáo truyền thông liên tục đề cập đến đại dịch như một cuộc khủng hoảng của người chưa được tiêm chủng, điều này đơn giản là không chính xác, vì COVID-19 tiếp tục ảnh hưởng và lây lan ở những người đã được tiêm chủng.
Ngày 30 tháng 7 năm 2021, Báo cáo hàng tuần về bệnh tật và tử vong của CDC (MMWR) đã đăng tải một báo cáo chi tiết về đợt bùng phát COVID-19 xảy ra ở Quận Barnstable, Massachusetts (Hoa Kỳ), trong đó 74% trường hợp xảy ra ở những người đã được tiêm chủng đầy đủ.
Tuy nhiên, cái gọi là “nhiễm trùng đột phá” – thứ từng được coi là thất bại của vaccine, cũng từng được CDC báo cáo trước đó rất nhiều, bao gồm cả MMWR ngày 28 tháng 5 năm 2021 của họ, ghi nhận 10.262 ca nhiễm trùng đột phá được báo cáo từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 23 tháng 4 năm 2021, trên 46 tiểu bang.
Họ tin rằng điều này “có thể là một con số thấp đáng kể”, nhưng thay vì tiếp tục đánh giá tình hình, họ đã ngừng theo dõi hầu hết các trường hợp nhiễm COVID-9 ở những người được tiêm chủng:
“Bắt đầu từ ngày 1 tháng 5 năm 2021, CDC chuyển từ việc giám sát tất cả các ca nhiễm đột phá do vaccine COVID-19 được báo cáo sang chỉ điều tra những trường hợp bệnh nhân nhập viện hoặc tử vong”.
Ông McCullough cũng đề cập đến tính kháng nguyên, miễn dịch hoặc thoát khỏi.
Nếu bạn đặt một sinh vật sống như vi khuẩn hoặc virus dưới áp lực; chẳng hạn như thuốc kháng sinh, kháng thể hoặc liệu pháp hóa học, nhưng không tiêu diệt được chúng hoàn toàn, bạn có thể vô tình khuyến khích chúng đột biến thành các chủng độc hại hơn.
Những con thoát khỏi hệ thống miễn dịch của bạn cuối cùng vẫn sống sót và chọn lọc các đột biến để đảm bảo sự sống sót sau này của chúng.
COVID-19 có khả năng đột biến cao nhưng nếu virus không trải qua áp lực, nó sẽ không cần phải chọn lọc các đột biến để lây nhiễm nhanh hơn.
Nhưng nếu bạn đặt nó dưới áp lực, như những gì đang diễn ra trong chiến dịch tiêm chủng hàng loạt trên toàn cầu, thì điều này có thể thay đổi.
Tiến sĩ McCullough tuyên bố:
“Nếu chúng ta cứ tiếp tục với việc tiêm, sẽ có biến thể này đến biến thể khác… Chúng ta đang chơi với lửa bằng việc tiêm chủng hàng loạt này…
Diễn giải của tôi với tư cách là một bác sĩ nội khoa và tim mạch – tôi là một nhà dịch tễ học được đào tạo, tôi theo đúng nghĩa đen đã trải qua một năm nghiên cứu và đào tạo về COVID với sự tập trung cao độ – Tôi sẽ nói với bạn, tôi nghĩ rằng đợt bùng phát Delta mà chúng ta từng có là sản phẩm của việc tiêm chủng hàng loạt.
Nếu chúng ta không tiêm chủng, chúng ta đã có thể tốt hơn. Lúc đó, chúng ta đã xử lý vấn đề này ở mức rất có thể chấp nhận được”.
Làm thế nào để vượt qua trạng thái bị mê muội với vaccine?
Tiến sĩ McCullough tin rằng nhiều nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và công chúng Hoa Kỳ đang trong tình trạng bị mê muội với tiêm chủng.
Nó thách thức mọi logic và suy luận thông thường, khi làm thế nào mà các viên chức chính phủ và giám đốc điều hành bệnh viện dù đã thấy vaccine không hiệu quả, chứng kiến sự gia tăng của các trường hợp tác dụng phụ và tử vong, vẫn có thể ban hành thêm các yêu cầu về vaccine hoặc đề xuất tiêm chủng cho các nhóm người mà rõ ràng là không nên, chẳng hạn như phụ nữ mang thai.
Ông McCullough ví nó như một dạng rối loạn tâm thần hoặc chứng loạn thần kinh nhóm.
Tuy nhiên, công chúng Hoa Kỳ đã chứng kiến rất nhiều nỗi sợ hãi, nhập viện và tử vong trong đại dịch đến mức họ có thể đã sẵn sàng để chấp nhận thương vong liên quan đến vaccine. Nhưng vẫn còn một số lượng lớn người Mỹ không bị lừa.
Tiến sĩ McCullough nói: “Chúng ta đang ở thời điểm áp lực, hiện tại, khi nói chuyện với những người Mỹ trong vòng kết nối (bạn bè, đồng nghiệp, gia đình…) của tôi, họ đã sẵn sàng để nghỉ ngơi”.
Nếu điều đó có nghĩa là nghỉ làm hoặc hoãn việc đi học trong một năm, nhiều người Mỹ sẵn sàng làm điều đó để tránh tiêm chủng.
“Cách duy nhất để giữ sức khỏe lúc này là tránh xa mọi loại vaccine.” – ông nói thêm.
Ông McCullough là người đề xuất điều trị sớm cho các bệnh nhân mắc COVID-19, nhưng cũng tin rằng các lựa chọn điều trị đó đã bị loại bỏ để mở đường cho chương trình tiêm chủng hàng loạt:
“Tôi nghĩ rằng họ vì để quảng cáo vaccine, đã hoàn toàn ngăn chặn bất kỳ hình thức điều trị hoặc giúp đỡ nào đối với mọi người.
Bây giờ vaccine không hoàn toàn hiệu quả và nó, thành thật mà nói, là nguy hiểm.
Chúng ta gần như đang nhận được một thông điệp bắt buộc: ‘Hãy tiêm hoặc nếu không…’ Đó là thời điểm đáng sợ nhất đối với một người Mỹ, và cảm ơn trời đất khi một nửa số người Mỹ đã không chấp nhận điều đó.
Chúng ta phải xem điều này sẽ tiếp tục tiến triển như thế nào. Tôi nghĩ rằng tháng tới sẽ vô cùng thú vị và nó sẽ rất đáng ngại”.
Tiến sĩ McCullough tin rằng cuối cùng mọi người sẽ thoát ra khỏi trạng thái mê muội với vaccine và nhận ra rằng, câu trả lời không phải là những mũi tiêm này, trong khi việc xử lý đại dịch, bao gồm cả những vụ tiêm chủng hàng loạt, sẽ trở thành một quá trình vi phạm nghiêm trọng đạo đức con người và bộ luật Nuremberg.
Tuy nhiên, với nỗi sợ hãi, sự cô lập, các trường hợp nhập viện và tử vong vẫn sẽ xảy ra; vì vậy, có lẽ phả imất nhiều năm nữa thì màn sương mù mới được xua tan.
Hoàng Tuấn
Theo The Epoch Times
In the 1950s, Penfield s electrical stimulation experiments suggested that a memory or thought could be elicited by activating neurons in the underlying network priligy equivalent